Thông tin về tăng trường kinh tế; Sản xuất Nông, lâm, thủy sản; Công nghiệp xây dựng; Thương mại & dịch vụ; Vốn đầu tư; Tài chính ngân hàng và một số vấn đề xã hội năm 2021.
Kinh tế - xã hội cả nước nói chung và Hải Phòng nói riêng trong năm 2021 diễn ra trong bối cảnh dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến mọi mặt của kinh tế-xã hội, hoạt động sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hóa, hành khách bị đình trệ, chi phí tăng cao, sức mua trong nước giảm sút; đời sống người dân, người lao động chịu tác động nặng nề…, đặt ra những thách thức không nhỏ trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Song, với sự tập trung vào cuộc, phản ứng nhanh, chủ động có các biện pháp hiệu quả trong công tác phòng, chống dịch, Hải Phòng đã tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh, tăng trưởng kinh tế thành phố tiếp tục đạt ở mức cao so với bình quân chung cả nước và các tỉnh, thành phố khác. Thời điểm cuối năm, sau khi áp dụng Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, trên địa bàn thành phố đã ghi nhận nhiều ca mắc mới trong cộng đồng, trong các khu công nghiệp. Tuy nhiên, thành phố tiếp tục áp dụng các giải pháp đồng bộ, quyết liệt, không để dịch bệnh bùng phát, lan rộng, chuyển sang trạng thái thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh. Các chỉ tiêu kinh tế-xã hội mặc dù không đạt kế hoạch đề ra nhưng tiếp tục có sự tăng trưởng cao so với cùng kỳ. Kết quả năm 2021 đạt được như sau:
1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố (GRDP) theo giá so sánh năm 2021 ước đạt 213.794,6 tỷ đồng, tăng 12,38% so với cùng kỳ năm trước, không đạt kế hoạch đề ra (kế hoạch năm 2021 tăng 13,5%), tuy nhiên đây là mức tăng trưởng cao, dẫn đầu cả nước, cho thấy sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của lãnh đạo thành phố và sự nỗ lực của các cấp, các ngành, người dân và doanh nghiệp để tiếp tục thực hiện hiệu quả mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế”.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có mức tăng 1,49% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,06 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Khu vực công nghiệp-xây dựng ước tăng 19,04% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 9,85 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Trong đó ngành công nghiệp vẫn giữ vai trò chủ lực với mức tăng trưởng 20,75% so với cùng kỳ, đóng góp 9,36 điểm phần trăm mức tăng chung; ngành xây dựng tăng 7,43% so với cùng kỳ, đóng góp 0,49 điểm phần trăm trong mức tăng trưởng toàn thành phố.
Khu vực dịch vụ ước tăng 5,13% so với cùng kỳ năm 2020, đóng góp 1,96 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước tăng 8,21% so với cùng kỳ, đóng góp 0,51 điểm phần trăm trong mức tăng trưởng chung toàn thành phố.
Quy mô nền kinh tế năm 2021 theo giá hiện hành ước đạt 315.709,7 tỷ đồng, trong đó khu vực: nông, lâm, nghiệp thủy sản đạt 12.537,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,97%; công nghiệp-xây dựng đạt 166.869,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 52,86%; thương mại-dịch vụ đạt 117.911,9 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 37,35%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp đạt 18.391 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 5,82%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Trong năm 2021, sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, cây trồng sinh trưởng phát triển thuận lợi, không có diện tích bị thiệt hại ảnh hưởng đến năng suất. Công tác phòng, chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi và quản lý vật tư nông nghiệp được chú trọng triển khai thực hiện trên địa bàn.
a) Nông nghiệp
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn thành phố năm 2021 ước đạt 78.056,0 ha, bằng 99,16% so với năm 2020. Diện tích canh tác cây trồng tiếp tục có xu hướng giảm trong những năm gần đây chủ yếu do sự dịch chuyển cơ cấu lao động từ ngành nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, hiệu quả kinh tế từ sản xuất nông nghiệp không cao đã hạn chế sức sản xuất trong dân và nhu cầu mở rộng diện tích gieo trồng.
Diện tích gieo trồng cây lúa ước đạt 57.704,0 ha, bằng 98,52% so với cùng kỳ năm trước. Năng suất lúa bình quân chung cả năm 2021 toàn thành phố ước đạt 64,25 tạ/ha, bằng 100,06% so với năm 2020.
Ước tính diện tích gieo trồng một số cây hàng năm khác cả năm 2021 so với cùng kỳ năm trước như sau: Cây ngô đạt 1.095 ha, bằng 113,36%; cây thuốc lào đạt 1.862,2 ha, bằng 100,8%; rau các loại đạt 12.963,5 ha, bằng 99,79%; nhóm cây đậu, đỗ các loại đạt 255,6 ha, bằng 123,3%; hoa các loại đạt 622,5 ha, bằng 123,51%.
Diện tích cây lâu năm trên địa bàn thành phố năm 2021 ước đạt 8.257,3 ha, bằng 100,87% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, cơ cấu các nhóm cây trồng lâu năm giữ được sự ổn định so với năm trước: diện tích nhóm cây ăn quả đạt 6.670,1 ha, chiếm 81% tổng diện tích cây lâu năm; diện tích cây lấy quả chứa dầu đạt 246,7 ha, chiếm 3%; diện tích cây lâu năm khác đạt 1.204,5 ha, chiếm 14%…
Tính đến thời điểm ngày 15/12/2021, tiến độ gieo trồng cây vụ Đông trên địa bàn thành phố ước đạt 6.085,6 ha, bằng 86,20% so với vụ Đông năm 2020. Trong đó: cây ngô đạt 292 ha, khoai lang đạt 200 ha, ớt đạt 305,7 ha, khoai tây đạt 444 ha…
Ước tính tháng 12 năm 2021, số lượng gia súc, gia cầm trên địa bàn thành phố hiện có như sau: Tổng đàn trâu ước đạt 4,168 nghìn con, giảm 7,56% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò ước đạt 8,956 nghìn con, giảm 7,68%; tổng đàn lợn hiện có ước đạt 145,584 nghìn con, tăng 16,89% so với cùng kỳ năm trước; tổng đàn gia cầm hiện có ước đạt 8.663,7 nghìn con, giảm 4,35% so với cùng kỳ năm trước, trong đó đàn gà ước đạt 6.523,1 nghìn con, giảm 4,54%.
Sản lượng xuất chuồng thịt lợn hơi cả năm 2021 ước đạt 24,48 nghìn tấn, tăng 4,56% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 633,53 tấn, giảm 10,50%; sản lượng bò hơi xuất chuồng ước đạt 918,54 tấn, giảm 9%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 68,78 nghìn tấn, tăng 1,96%; sản lượng trứng gia cầm ước đạt gần 325,12 triệu quả, giảm 7,4% so với cùng kỳ năm trước.
b) Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp năm 2021 trên địa bàn thành phố duy trì ở mức ổn định, diện tích rừng được chăm sóc bảo vệ (rừng phòng hộ) ước đạt 159,3 ha; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh ước đạt 1,2 nghìn ha, diện tích rừng được giao khoán bảo vệ ước đạt 12,9 nghìn ha.
Ước tính tháng 12 năm 2021, sản lượng gỗ khai thác đạt 88,6m³, giảm 7,71% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 3.439,2 ste, giảm 5,68%. Tính chung cả năm 2021, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 1.299,8m³, giảm 7,55% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác ước đạt 39.939 ste, giảm 6,19%, sản lượng gỗ, củi chủ yếu được khai thác và thu nhặt từ cây lâm nghiệp trồng phân tán nên không tập trung và phân bổ không đồng đều giữa các tháng trong năm.
c) Thủy sản
Năm 2021, sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản ước đạt 190.679,8 tấn, tăng 4,36% so với cùng kỳ năm trước.
Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2021 ước đạt 11.430,3 ha, giảm 1,99% so với cùng kỳ năm 2020. Sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 75.423,7 tấn, tăng 2,80%, chia ra: cá các loại đạt 51.942,8 tấn, tăng 2,82%; tôm các loại đạt 6.767,9 tấn, tăng 1,70%; thủy sản khác đạt 16.713,0 tấn, tăng 3,18%.
Sản lượng thủy sản khai thác của toàn thành phố ước cả năm 2021 đạt 115.256,1 tấn, tăng 5,41% so với cùng kỳ năm trước.
3. Sản xuất công nghiệp
Năm 2021, trong điều kiện dịch bệnh diễn biến phức tạp kéo dài, song với việc Thành phố kiểm soát hiệu quả dịch bệnh và triển khai đồng bộ các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kịp thời có các cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh và sự năng động, nỗ lực vượt qua khó khăn của các doanh nghiệp đã giúp sản xuất công nghiệp trên địa bàn vẫn duy trì đà tăng trưởng và hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm với mức tăng 18,15% so với năm 2020, cao hơn mức tăng 14,58% của năm 2020, là mức tăng trưởng thuộc tốp cao nhất trong các tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn của cả nước.
Ngành công nghiệp chế biến chế tạo giữ vai trò chủ lực, dẫn dắt cho tăng trưởng công nghiệp trong năm 2021; đặc biệt là đóng góp của những ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao với nhiều sản phẩm tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, được đánh giá rất cao về công nghệ và chất lượng như sản xuất linh kiện điện thoại, điện tử dân dụng, sản xuất ô tô, sản xuất thiết bị tự động…
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước cả năm 2021 tăng 8,07% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tại thời điểm 31/12/2021 tăng 1,67% so với tháng trước và tăng 13,29% so với cùng thời điểm năm trước.
Số lao động làm việc trong doanh nghiệp công nghiệp ước tại thời điểm 01/12/2021 tăng 1,21% so với tháng trước và tăng 9,04% so với cùng kỳ, trong đó: lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 3,76%; lao động doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 4,91%; lao động doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,02%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2021 ước tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Cửa gỗ, cửa ra vào bằng gỗ tăng 224,42%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại tăng 191,08%; giấy và bìa nhăn tăng 100,48%; xe có động cơ chở dưới 10 người tăng 76,09%; màn hình tăng 74,54%; quần áo các loại tăng 54,25%; sổ sách, vở giấy thếp tăng 44,09%; máy hút bụi các loại tăng 51,21%; Nến, nến cây tăng 44,08%,… Một số sản phẩm giảm sâu so với năm 2020 như: gỗ ốp lát công nghiệp giảm 47,24%; điện thoại thông minh có giá từ 3 đến 6 triệu giảm 61,2%; găng tay cao su giảm 46,44%;…
4. Thương mại và dịch vụ
Những tháng cuối năm, tình hình dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, số ca nhiễm có chiều hướng gia tăng tác động tiêu cực tới hoạt động kinh tế-xã hội trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên với các biện pháp phòng chống dịch hiệu quả, thành phố đang chuyển sang trạng thái thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh nên hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, dịch vụ cơ bản vẫn được duy trì ổn định. Sản phẩm hàng hóa phong phú, đảm bảo chất lượng, giá cả phù hợp, đáp ứng nhu cầu mua sắm tăng cao của người dân vào dịp cuối năm.
* Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước cả năm 2021 đạt 153.171,7 tỷ đồng, tăng 6,52% so với cùng kỳ năm trước, bằng 95,37% kế hoạch (kế hoạch năm 2021 đạt 160.608 tỷ đồng).
Xét theo ngành hoạt động: Năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 126.488,9 tỷ đồng, tăng 9,79% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 1.033,3 tỷ đồng, giảm 40,32% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 16.840,8 tỷ đồng, giảm 6,04% so với cùng kỳ; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 46,5 tỷ đồng, giảm 70,29% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 8.762,1 tỷ đồng, giảm 0,14% so với cùng kỳ năm 2020.
* Dịch vụ vận tải
Năm 2021, vận chuyển hàng hóa ước đạt 241,2 triệu tấn, tăng 9,03% so với cùng kỳ năm trước, luân chuyển hàng hóa ước đạt 106.820 triệu tấn.km, tăng 0,34% so với cùng kỳ. Vận chuyển hành khách năm 2021 ước đạt 33 triệu lượt, giảm 34,41% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hành khách ước đạt 1.357,4 triệu Hk.km, giảm 32,11% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hàng hóa vận chuyển và luân chuyển năm 2021 tăng so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu tăng ở khối đường bộ do giao thông đường bộ ngày càng thuận lợi, ngoài ra do lượng hàng hoá xuất nhập khẩu tập trung thông qua các cảng Hải Phòng năm 2021 tăng cao nên nguồn hàng vận chuyển tăng so cùng kỳ năm trước. Khối lượng hành khách vận chuyển và luân chuyển năm 2021 giảm so với cùng kỳ tác động bởi tình hình dịch bệnh nên nhu cầu khách đi lại giảm mạnh.
* Hoạt động du lịch
Ngành du lịch là ngành chịu nhiều tác động nhất từ dịch bệnh. Năm 2021, tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt gần 3.707 nghìn lượt, giảm 50,68% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó khách quốc tế ước đạt 64,7 nghìn lượt, giảm 77,91% so với cùng kỳ.
* Hoạt động xuất, nhập khẩu
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2021 ước đạt 26.509,8 triệu USD, tăng 23,99% so với cùng kỳ. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2021 ước đạt 25.767,9 triệu USD, tăng 25,84% so với cùng kỳ.
* Sản lượng hàng qua cảng: Năm 2021, sản lượng hàng hóa thông qua cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 151.124 nghìn tấn, tăng 8,05% so với cùng kỳ năm 2020. Doanh thu cảng biển năm 2021 ước đạt 5.755,1 tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ.
5. Tài chính và ngân hàng
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố năm 2021 ước đạt 90.421 tỷ đồng, đạt 117,2% dự toán Trung ương giao, đạt 101% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao.
Trong đó: Thu nội địa ước đạt 35.000 tỷ đồng, bằng 133,1% dự toán Trung ương giao, bằng 100% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao và bằng 106,9% so với cùng kỳ năm trước; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 54.000 tỷ đồng, bằng 109,1% dự toán trung ương giao, bằng 101,9% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao và bằng 113,2% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng chi ngân sách địa phương năm 2021 ước thực hiện 29.138,6 tỷ đồng; bằng 134,9% dự toán Trung ương giao và bằng 98,2% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao.
Trong đó: Chi cân đối ngân sách địa phương ước thực hiện 27.678,5 tỷ đồng, trong chi cân đối, chi đầu tư phát triển ước thực hiện 11.867,9 tỷ đồng, bằng 196,2% dự toán Trung ương giao và bằng 96,3% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao; chi thường xuyên ước thực hiện 12.591.204 triệu đồng, bằng 105,6% dự toán Trung ương giao và bằng 99% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao.
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước thực hiện đến 31/12/2021 đạt 266.968 tỷ đồng, tăng 12,32% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2021 ước đạt 145.202 tỷ đồng, tăng 11,34% so với cùng kỳ năm trước.
6. Đầu tư xây dựng
Năm 2021 với nhiều biến động, đại dịch Covid-19 ảnh hưởng tới mọi mặt phát triển kinh tế-xã hội. Hoạt động đầu tư của các thành phần kinh tế chịu tác động không nhỏ, thành phố Hải Phòng đã kịp thời thay đổi phương thức xúc tiến đầu tư nhằm thích ứng với tình hình mới của dịch bệnh Covid-19.
Dự tính vốn đầu tư thực hiện năm 2021 trên địa bàn thành phố đạt 173.217,5 tỷ đồng, tăng 1,35% so với cùng kỳ năm trước. Vốn khu vực Nhà nước trên địa bàn ước đạt 19.479 tỷ đồng, tăng 6,97% so với cùng kỳ. Khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất (57,35%) trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, ước năm 2021 đạt 99.342,6 tỷ đồng, giảm 4,81% so với cùng kỳ. Vốn đầu tư khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài ước cả năm 2021 đạt 54.395,9 tỷ đồng, tăng 12,53% so với cùng kỳ.
* Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tính đến 15/12/2021, Hải Phòng có 789 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 22.691,96 triệu USD. Từ đầu năm đến 15/12/2021, toàn thành phố có 51 dự án cấp mới đến từ 11 quốc gia và vùng lãnh thổ với số vốn đầu tư đạt 349,4 triệu USD, tương ứng với 32,94% so với cùng kỳ năm trước. Điều chỉnh tăng vốn đầu tư có 64 dự án, với số vốn tăng là 2.719,49 triệu USD. Các dự án mới và tăng vốn chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Tổng cấp mới và tăng vốn toàn thành phố có 115 dự án, vốn đầu tư đạt 3.068,89 triệu USD.
Từ đầu năm đến 15/12/2021, có 24 dự án thu hồi/chấm dứt hoạt động trong đó 11 dự án nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động; 08 dự án thu hồi do vi phạm quy định đầu tư; 03 dự án chuyển địa điểm và 02 dự án chuyển 100% thành vốn trong nước.
7. Chỉ số giá
Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, dưới sự chỉ đạo sát sao của thành phố, các ngành các cấp đã tích cực triển khai thực hiện các giải pháp đồng bộ để ngăn chặn dịch bệnh và ổn định giá cả thị trường.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thành phố Hải Phòng tháng 12 năm 2021 giảm 0,07% so với tháng trước, tăng 1,76% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân năm 2021 tăng 1,01% so với cùng kỳ.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 02 nhóm có chỉ số giá tiêu dùng giảm, 08 nhóm hàng có chỉ số giá tăng so với tháng trước, riêng nhóm bưu chính viễn thông có chỉ số giá không thay đổi.
So với tháng 12/2020, CPI tháng 12/2021 tăng 1,77%, trong đó có 09 nhóm hàng tăng giá và 02 nhóm hàng giảm giá. Nhóm giao thông tháng 12/2021 tăng cao nhất với 17,18% do các đợt điều chỉnh giá giá xăng, dầu trong nước.
Chỉ số giá vàng tháng 12/2021 giảm 0,36% so với tháng trước, giảm 2,87%, giảm 2,79% so với tháng 12/2020. Giá vàng bình quân tháng 12/2021 dao động ở mức 5,26 triệu đồng/chỉ, giảm 19.000 đồng/chỉ.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2021 tăng 0,84% so với tháng trước, giảm 1,05% so với tháng 12/2020. Tỷ giá USD/VND bình quân tháng 12/2021 dao động ở mức 22.986 đồng/USD, tăng 190,89 đồng /USD.
8. Một số vấn đề xã hội
Dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp khi thành phố liên tục có nhiều ca nhiễm mới ngoài cộng đồng và đã ghi nhận những trường hợp tử vong đầu tiên do dịch bệnh, ảnh hưởng đến đời sống an sinh của nhân dân và tình hình kinh tế chung của thành phố. Trước tình hình đó, Lãnh đạo và nhân dân thành phố Hải Phòng luôn chủ động các phương án, ứng phó chính xác diễn biến dịch, hạn chế thấp nhất nguy cơ xâm nhập và khả năng lây lan dịch bệnh trong thành phố.
a) Dân số và lao động
Dân số trung bình năm 2021 của thành phố Hải Phòng ước đạt 2.072,4 nghìn người, tăng 18,9 nghìn người, tương đương tăng 0,92% so với năm 2020. Phân theo giới tính: dân số nam 1.025 nghìn người, chiếm 49,45%; dân số nữ 1.047,4 nghìn người, chiếm 50,54%.
b) Lao động việc làm
Trong năm 2021, ước thực hiện giải quyết việc làm cho 56.000 lượt lao động, đạt kế hoạch và tăng 1,08% so với năm 2020; giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho 18.200 người (giảm 23,85% so với cùng kỳ năm 2020).
c) Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo bền vững, với mục tiêu đến cuối năm 2021, không còn hộ nghèo, thành phố Hải Phòng đã triển khai thực hiện nhiều chính sách cho các đối tượng như: hỗ trợ hộ nghèo vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội ước tổng dư nợ vốn vay học sinh sinh viên đạt 90.204 triệu đồng với 3.088 học sinh sinh viên, bình quân mỗi học sinh 29,2 triệu đồng; dư nợ vốn vay hộ nghèo đạt 164.365 triệu đồng với 4.537 hộ nghèo được vay vốn, bình quân mỗi hộ được vay 36,2 triệu đồng; dư nợ vốn vay hộ cận nghèo đạt 1.056.803 triệu đồng với 26.793 hộ cận nghèo được vay vốn, bình quân mỗi hộ được vay 39,4 triệu đồng; dư nợ vốn vay hộ mới thoát nghèo đạt 571.490 triệu đồng với 14.407 hộ cận nghèo được vay vốn, bình quân mỗi hộ được vay 39,7 triệu đồng.
Trong năm 2021, thành phố tổ chức cai nghiện ma túy dưới mọi hình thức; ước thực hiện cả năm 2021 các cơ sở cai nghiện ma túy đã cai nghiện tập trung cho 2.330 lượt người, đạt 93,2% kế hoạch năm. Cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 229 người, đạt 57,88% so với kế hoạch.
d) Giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao
Công tác giáo dục: Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp, nhiều trường học trên địa bàn thành phố đã ghi nhận các ca dương tính là giáo viên và học sinh, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng đã kịp thời hướng dẫn các trường học chủ động trong công tác truy vết những trường hợp liên quan và có những phương án kịp thời, linh hoạt trong việc dạy và học tại các trường. Thành phố đã cho học sinh các trường có ca bệnh học theo hình thức trực tuyến để đảm bảo an toàn sức khỏe cho học sinh và giáo viên.
Công tác y tế dự phòng: Tính đến ngày 25/12/2021, tổng số ca Covid-19 tích lũy ghi nhận 6.287 ca, trong giai đoạn 4 của dịch (từ ngày 27/4/2021): 6.281 ca (trong đó 48 nhập cảnh). Công bố khỏi bệnh: 141 ca; hồi phục xuất viện: 1.966 ca; đang điều trị: 4.308 ca; tích lũy ca tử vong: 13 ca.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong năm 2021, thành phố thực hiện 15 đợt thanh tra, kiểm tra, bao gồm kiểm tra định kỳ: Tết liên ngành, bếp ăn tập thể, tháng hàng động, nước uống đóng chai, Tết Trung thu, thực phẩm chức năng và bao bì chứa đựng thực phẩm; 01 đợt thanh tra bếp ăn tập thể; 05 đợt kiểm tra đột xuất; 03 đợt tham gia điều tra ngộ độc. Số cơ sở được thanh tra trong 1 đợt là 14 cơ sở, trong đó có 03 cơ sở bị xử phạt với số tiền là 28 triệu đồng, các lỗi vi phạm chủ yếu là thực hiện kiểm thực 3 bước chưa đúng theo quy định, quy trình sản xuất thực phẩm không theo nguyên tắc 1 chiều; cống, rãnh thoát nước thải khu chế biến bị ứ đọng nước, không che kín… Số cơ sở kiểm tra trong 14 đợt là 319 cơ sở, trong đó có 29 cơ sở bị xử phạt với số tiền là 243,75 triệu đồng.
Trong năm 2021, có 03 vụ ngộ độc thực phẩm tập thể không rõ nguyên nhân với 90 trường hợp mắc, tăng 01 vụ, tăng 29 người so với năm 2020; phạt hành chính 50 triệu đồng các cơ sở về vi phạm kiểm thực, lưu mẫu, biện pháp phòng chống động vật gây hại.
* Công tác phòng chống HIV/AIDS: Lũy tích ước tính đến tháng 12/2021, số người nhiễm HIV là 11.539 người, số người chuyển sang AIDS là 6.318 người; số người chết do AIDS là 5.360 người; số người nhiễm HIV hiện còn sống là 6.179 người.
Tính đến tháng 12/2021 tổng số cơ sở điều trị Methadone: 18 cơ sở, tổng số bệnh nhân điều trị là 3.930 người, đạt 85,4% chỉ tiêu được giao, số bệnh nhân đạt liều duy trì 95%. So với cùng kỳ năm 2020, số bệnh nhân mới tham gia điều trị giảm 36 bệnh nhân; bệnh nhân ra khỏi chương trình, ngừng điều trị giảm 52 bệnh nhân.
* Công tác văn hóa-thể thao: Năm 2021, toàn Ngành Văn hóa, Thể thao đã đoàn kết, thống nhất, năng động, sáng tạo, quyết liệt trong công tác tham mưu, chỉ đạo, điều hành để tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình, nhiệm vụ công tác được Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố giao. Đồng thời, thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19 theo đúng chủ trương, hướng dẫn như: kịp thời ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác phòng, chống dịch bệnh; đẩy mạnh tuyên truyền trong toàn ngành và tại các lễ hội, di tích, cơ sở kinh doanh các dịch vụ văn hóa, thể thao trên địa bàn thành phố.
e) Tai nạn giao thông
Trong năm 2021, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 73 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 02 vụ tai nạn giao thông đường sắt, 01 vụ tai nạn giao thông đường thủy. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 59 người và bị thương 37 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giảm 03 vụ với cùng kỳ (tương ứng giảm 3,8%), số người chết giảm 04 người (tương ứng giảm 6,35%) và số người bị thương giảm 01 người (tương ứng giảm 2,63%).
f) Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Trong năm 2021, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 81 vụ cháy, giảm 1,22% so với cùng kỳ năm 2020, làm 01 người chết, 11 người bị thương, gây thiệt hại ước tính 4,67 tỷ đồng, nguyên nhân các vụ cháy chủ yếu do tình trạng bất cẩn trong cách sử dụng các thiết bị có nguy cơ cháy, nổ cao; một số vụ cháy thảm thực bì rừng gây thiệt hại ước tính là 12,28 ha.
Nguồn: thanhphohaiphong.gov.vn